

Trong xã hội hiện đại với những sự chuyển dịch công nghiệp, dịch vụ, các nghề thủ công truyền thống đều đang gặp phải những khó khăn trong việc duy trì nghề. Nghề làm giấy dó tại làng Dương Ổ (Đống Cao), thành phố Bắc Ninh không ngoại lệ cũng gặp phải khó khăn chung đó. Tuy nhiên, đi ngược lại với xu hướng, Ngô Thu Huyền, cô gái trẻ với tình yêu mãnh liệt với tờ giấy Dó có hướng đi riêng để tiếp tục duy trì và phát triển nghề thủ công truyền thống của gia đình.

Làng nghề làm giấy Đống Cao

Làng nghề làm giấy Dó tại Dương Ổ, Bắc Ninh là một trong những cái nôi của nghề làm giấy dó truyền thống. Nghề làm giấy dó có từ thế kỷ III, phát triển mạnh vào các thế kỷ XIII và XIV.


Trước đây, hầu hết các hộ dân trong làng đều làm giấy Dó thủ công. Tuy nhiên, theo sự nhu cầu và phát triển của xã hội, người dân chuyển dần sang làm giấy công nghiệp, giấy vệ sinh và các sản phẩm giấy tái sinh khác.
Hiện tại, trong làng chỉ còn khoảng 5 hộ vẫn tiếp tục sản xuất giấy Dó thủ công.

Giấy dó là giấy được tạo nên từ phần vỏ cây của cây dó (dó liệt, dó giấy…). Giấy được sản xuất một cách thủ công bằng các phương pháp gia truyền mà ông cha ta để lại.
Giấy Dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gãy, ẩm nát. Đặc biệt, giấy dó có độ bền rất cao. Để đạt được những tính chất như vậy, nguyên liệu phải trải qua gần 10 giai đoạn với thời gian lên tới hàng tháng trời tùy điều kiện nắng mưa. Người thợ làm giấy dó phải thật sự khéo tay, kiên trì bền bỉ, tỉ mỉ trong từng khâu, từng bước.
Vỏ cây Dó khi lấy về phải được ngâm và đun trong nước vôi 10 tiếng. Sau đó được ủ, nhặt và rửa sạch 2 lần để thải hết nhựa cây và chất vôi. Công đoạn này kéo dài khoảng 10-15 ngày. Sau đó, vỏ Dó được nghiền nhỏ, hòa kỹ với nước và gỗ mò trước khi tráng thành giấy. Cuối cùng, giấy được ép kiệt nước và bóc thành từng lớp, phơi khô ở nơi thoáng gió.



Ngô Thu Huyền - sinh năm 1991, từng theo học ngành ngôn ngữ Anh tại đại học Phương Đông, Hà Nội. Ông của Huyền là một trong những người làm giấy dó nổi tiểng trong làng. Ngay từ nhỏ, Huyền được tiếp xúc với nghề làm giấy của gia đình và sớm nảy sinh tình cảm đặc biệt với những tờ giấy.
Huyền tâm sự rằng, thế hệ trẻ không có quan tâm nhiều đến tờ giấy Dó. Đó là sự lo lắng của Huyền, vì nếu không có người trẻ làm giấy thì làng nghề sẽ ngày càng mai một và dần mất đi.
Sau này, khi sau khi học đại học, ông của Huyền cũng đã cao tuổi, lo sợ khi ông mất đi, sự nghiệp và di sản của ông sẽ không có ai tiếp nối. Huyền quyết định về quê và tiếp tục làm giấy. Tên gọi Ngô Đức là tên dòng họ, mang ý nghĩa như một dòng chảy, với mong muốn lưu giữ lại nền tảng về làm nghề thủ công truyền thống mà các thế hệ đi trước để lại và tiếp tục phát triển nghề vận động cùng với xã hội hiện đại.

Theo Huyền, đầu ra của sản phẩm ngày càng thu hẹp dần, giấy dó không còn được sử dụng nhiều như xưa nên việc duy trì và phát triển xưởng sẽ có nhiều thách thức hơn.

Đầu ra sản phẩm ít cho nên nguồn nguyên liệu cũng ngày càng bị thu hẹp lại. Nguyên liệu chính để làm ra giấy dó là vỏ cây dó. Người dân vùng nguyên liệu hiện nay cũng không trồng cây dó nữa, mà việc khai thác chủ yếu đến từ tự nhiên. Cho nên việc thu mua nguyên liệu cũng ngày càng khó hơn.
Một khó khăn xuất phát từ nhân lực khi mà người thợ lành nghề cũng không còn nhiều.

Nhờ vào ưu điểm nổi bật nhất là độ bền, thời xưa, giấy Dó thường được sử dụng trong các tài liệu quan trọng và có ý nghĩa như các bản sắc phong, tài liệu của triều đình hoặc dùng trong thi cử hay trong những dòng tranh dân gian.
Chị Huyền đánh giá những ứng dụng đó không còn được sử dụng nhiều nữa, và cần có sự chuyển hướng sử dụng giấy Dó sang các lĩnh vực nghệ thuật khác phù hợp với thời đại hơn. Giới trẻ có quan tâm tới các loại hình nghệ thuật như vẽ tranh màu nước, calligraphy (thư pháp hiện đại), hoặc sử dụng làm các sản phẩm thủ công. Tờ giấy dó cần phải đáp ứng được yêu cầu trong sáng tác các tác phẩm nghệ thuật đó
Đó cũng là phương hướng mà chị Huyền mong muốn để đưa tờ giấy dó Ngô Đức đến gần với các bạn trẻ hơn. Giấy dó Ngô Đức đã phối hợp những nghệ sĩ calligraphy, những họa sĩ trẻ tổ chức các sự kiện artshow, talkshow để quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn. Đồng thời, việc hợp tác với các nghệ sĩ trẻ cũng đem lại những phản hồi, đóng góp để cải thiện, nâng cao chất lượng tờ giấy phù hợp với yêu cầu đa dạng của các lĩnh vực nghệ thuật hơn.


Gần đây nhất, chuỗi workshop "Những làn sống / The living flows" gồm có hoạt động làm giấy gió đã thu hút được một lượng các bạn trẻ đến tìm hiểu và được trực tiếp tham gia tự làm giấy dó. Hoạt động này ngoài việc quảng bá cho thương hiệu cũng góp phần lan tỏa kiến thức thực tế về nghề làm giấy dó đến đông đảo các bạn trẻ hơn.
Để có thể thực hiện thành công những sự kiện như vậy, chị Huyền đã tận dụng xây dựng các kênh mạng xã hội và các trang thương mai điện tử để quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến rộng rãi mọi người hơn. "Đó chính là cơ hội mà cuộc sống hiện đại mang lại cho các sản phẩm truyền thống" - Chị Huyền chia sẻ.


Sinh ra ở trong gia đình có truyền thống làm nghề thủ công đã giúp Huyền được kế thừa và học tập kiến thức, kinh nghiệm từ thế hệ đi trước. Đồng thời, là một người trẻ tiếp xúc với thế giới hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi có thể kết hợp giá trị truyền thống lẫn giá trị hiện đại để vận động, nâng cao giá trị của tờ giấy dó.
Mong rằng, câu chuyện về việc kế thừa và phát huy truyền thống của giấy dó Ngô Đức sẽ có thể truyền cảm hứng và ý tưởng cho nhiều nghề thủ công truyền thống khác vận động cùng xu hướng xã hội hiện đại

Thực hiện: Hoàng Kim Hưng